Khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự

Bộ luật hình sự 2015 ra đời có nhiều điểm mới được sửa đổi bổ sung so với Bộ luật hình sự 2005. Trong đó có điểm mới quy định tại khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích. Cụ thể hãy cùng Luật Rong Ba tìm hiểu bài viết dưới đây với chủ đề khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự.

Quy định khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự

Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018) quy định về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” có điểm mới so với các BLHS trước đây về hành vi chuẩn bị phạm tội, cụ thể:

Tại khoản 6 Điều 134/BLHS quy định: “6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Theo quy định của điều luật và hướng dẫn tại Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thì quy định tại khoản 6 Điều 134/BLHS không bắt buộc người phạm tội phải hoàn thành hành vi khách quan là gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác và cũng không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra.

Người có hành vi chuẩn bị một trong các loại công cụ, phương tiện phạm tội như: Vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì đã đủ dấu hiệu về mặt hành vi khách quan để xử lý hình sự người phạm tội.

Theo quy định tạikhoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự về việc Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại, thì chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định việc khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS phải theo yêu cầu của bị hại, hay nói cách khác việc khởi tố vụ án để xử lý tội phạm theo khoản 6 Điều 134 BLHS không cần yêu cầu của người bị hại.

Vấn đề đặt ra, người có hành vi thỏa mãn các dấu hiệu về mặt hành vi khách quan quy định tại khoản 6 Điều 134/BLHS, đồng thời người đó cũng đã thực hiện hành vi gây ra hậu quả thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm quy định tại khoản 1 Đ134/BLHS, thì việc xử lý trên thực tiễn hiện nay cũng còn có nhiều bất cập,chưa đảm bảo nguyên tắc xử lý và chính sách hình sự, đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.

Ví dụ: Do có mâu thuẫn từ trước với B, nhóm của A gồm nhiều người bàn bạc chuẩn bị các loại hung khí như búa đinh, dao phay, kiếm, tuýp sắt nhằm mục đích tấn công gây thương tích cho B để hả giận. Sau khi tìm thấy B, nhóm của A đã dùng hung khí nguy hiểm đem theo đánh B gây thương tích 10% sức khỏe. 

Như vậy nhóm của A đã thực hiện các hành vi khách quan vừa thỏa mãn yếu tố cấu thành tội phạm theo khoản 6 Điều 134/BLHS, vừa thỏa mãn cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 134/BLHS.

So sánh giữa khoản 1 và khoản 6 Điều 134/BLHS thì khoản 1 Điều 134/BLHS có khung hình phạt nặng hơn (phạt tù đến 3 năm).

Về nguyên tắc phải xử lý theo khung hình phạt nặng hơn nếu hành vi khách quan thỏa mãn, tuy nhiên người bị hại là anh B không yêu cầu khởi tố thì không thể khởi tố để xử lý nhóm của A theo khoản 1 Điều 134/BLHS được.

Vậy có thể khởi tố nhóm của A theo khoản 6 Điều 134/BLHS để xử lý hay không (nếu anh B không yêu cầu khởi tố)? hoặc sau khi khởi tố theo khoản 1 Điều 134/BLHS, anh B rút đơn thì có chuyển sang xử lý theo khoản 6 Điều 134/BLHS hay không, hay phải đình chỉ vụ án và xử lý hành chính?

Theo quan điểm của cá nhân tôi, vụ việc trên cần phải khởi tố và xử lý đối với nhóm đối tượng A theo khoản 6 Điều 134/BLHS để đảm bảo sự công bằng và chính sách hình sự trong việc xử lý trách nhiệm hình sự, bởi lẽ:

Thứ nhất: Trong ví dụ trên, trường hợp nhóm của A khi đang trên đường đi đánh B thì bị phát hiện và được ngăn chặn kịp thời, mặc dù hậu quả chưa xảy ra, nhưng hành vi của các đối tượng đã đủ dấu hiệu về mặt hành vi khách quan để khởi tố và xử lý theo quy định tại khoản 6 Điều 134/BLHS.

Trường hợp này không cần B có đơn yêu cầu khởi tố hay không, nhóm của A vẫn phải bị khởi tố để xử lý. Do đó việc nhóm A có hành vi đánh anh B gây thương tích, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn, nhưng chỉ vì anh B không yêu cầu khởi tố mà hành vi nguy hiểm hơn của nhóm A lại không bị khởi tố hình sự để xử lý là không đảm bảo chính sách hình sự trong phân hóa tội phạm. 

Thứ hai: Thực tiễn hiện nay nhiều vụ án Cố ý gây thương tích được khởi tố theo khoản 1 Điều 134/BLHS, quá trình điều tra, người bị hại do được bồi thường hoặc bị đe dọa đã rút đơn yêu cầu khởi tố (không loại trừ việc người bị hại lợi dụng cố tình đưa ra mức bồi thường cao, các bị can vì không muốn bị xử lý hình sự nên buộc phải chấp nhận), vụ án được đình chỉ, người phạm tội không bị xử lý mặc dù hành vi thỏa mãn dấu hiệu tội phạm quy định tại khoản 6 Điều 134/BLHS.

Điều này dẫn đến mất tính công bằng trong chính sách hình sự, người thực hiện hành vi nguy hiểm hơn không bị xử lý – còn người chưa gây ra hậu quả lại bị xử lý. 

Thứ ba: Việc không xử lý nhóm của A theo khoản 6 Điều 134/BLHS không đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay, nhất là các tội phạm mang tính băng nhóm, xã hội đen, tội phạm có tổ chức …..…

khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự

khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự

Dấu hiệu pháp lý của tội phạm cố ý gây thương tích điều 134

Khách thể của tội phạm

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe. Tội phạm xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người.

Mặt khách quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện các hành vi tác động vào cơ thể của người khác làm cho người đó bị thương, bị tổn hại sức khỏe.

Các hành vi như: Đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu độc, điều khiển để chó cắn nạn nhân, bị tra tấn,… Có trường hợp người phạm tội cưỡng bức người bị hại tự làm tổn hại cho sức khỏe của mình như tự chọc vào mắt mình, uống thuốc phá thai, chặt ngón tay,…

Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên bị coi là tội phạm.

Nếu hậu quả tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì cũng coi là tội phạm:

Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người. Vũ khí, vật liệu nổ theo quy định tại Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017.

Hung khí nguy hiểm được hiểu là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm khác. Theo nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 thì “phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của cong người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.

Ví dụ: Dùng dao sắc nhọn, dao phay, búa đinh, côn gỗ, thanh sắt mài nhọn, gạch, đá,… gây thương tích cho người khác.

Dung axit nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Các axit, hóa chất nguy hiểm là những chất có thể phá hủy tế bào cơ thể. Để xác định có phải là axit hoặc hóa chất gì thì phải trưng cầu giám định.

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi: Căn cứ vào giấy khai sinh, sổ hộ kh ẩu hoặc chứng minh nhân dân,… để xác định tổi nạn nhân.

Phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ: Phụ nữ đang có thai có thể do người phạm tội nhận biết được hoặc nghe người khác nói.

Việc xác định có thai hay không phải căn cứ vào kết luận của bác sĩ. Người già yếu là người từ 60 tuổi trở lên, sinh hoạt, đi lại khó khăn,…

Người ốm đau là người đang bị bệnh tật, có thể điều trị ở bệnh viện, cơ sở y tế tư nhân hoặc tại nhà riêng của họ. Người không có khả năng tự vệ như người bị tật ngeuyền, thương binh nặng,…

Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình: Ông, bà gồm ông bà nội, ông bà ngoại; Cha mẹ là người đã sinh ra người phạm tội;

Cha mẹ nuôi là người nhận người phạm tội làm con nuôi được pháp luật thừa nhận; Người nuôi dưỡng là người chăm sóc, quản lý, giáo dục như vai trò của bố mẹ mình; Thầy giáo, cô giáo của mình là người trực tiếp giảng dạy mình về văn hóa, chuyên môn, nghề nghiệp,…

Về tình tiết “phạm tội đối với thầy giáo, cô giáo của mình”, xem thêm mục 3.3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006.

Có tổ chức là phạm tội có từ hai người trở lên khi thực hiện tội phạm, giữa họ có sự phân công trách nhiệm và câu kết chặt chẽ với nhau.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Để xác định thời gian này cần căn cứ vào quyết định bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền.

Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê.

Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm. Phạm tội có tính chất côn đồ là trường hợp thực hiện tội phạm có tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, gây thương tích không có nguyên cớ hoặc phạm tội vì lý do nhỏ nhặt, đâm, đánh người dã man,…

Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Căn cứ để để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/08/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám pháp y tâm thần (trước là Thông tư 20/2014/TT-BYT).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả xảy ra.

Chủ thể của tội phạm

Người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực TNHS. Theo quy định của Điều 12 BLHS năm 2015 thì phạm tội thuộc khoản 2, 3, 4, 5 Điều 134 thì bị truy cứu TNHS. Người đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về mọi trường hợp phạm tội này.

Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý.

Hình phạt

Khung 1: Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội từ điểm a đến điểm k như phân tích trên.

Khung 2: Quy định hình phạt từ từ 02 năm đến 06 năm thuộc một trong những trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều này.

Khung 3: Quy định phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi phạm tội một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 3 Điều này.

Khung 4: Quy định phạt tù từ 07 năm đến 17 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 4 Điều này.

Khung 5: Quy định phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Làm chết 02 người trở lên;

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Trong các tình tiết tăng nặng cần lưu ý:

Để xác định mức độ gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và có phải thuộc vùng mặt hay không căn cứ vào kết quả giám định pháp y thương tích.

Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/08/2019  của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám pháp y tâm thần (trước là Thông tư 20/2014/TT-BYT).

Phạm tội dẫn đến chết người là trường hợp ý thức chủ quan của người phạm tội chỉ muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân nhưng không may nạn nhân chết, việc nạn nhân chết là người ý muốn của người phạm tội.

Phải xác định vì bị thương nặng nên nạn nhân chết chứ không phải nguyên nhân nào khác, ở đây cần phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả chết người với những thương tích của nạn nhân do người phạm tội gây ra.

Khung 6: Quy định phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người chuẩn bị phạm tội này.

Chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, axit nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Người phạm tội còn có thể bị xem xét về tội liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ (theo Điều 304, 305, 306).

Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về khoản 6 điều 134 bộ luật hình sự và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm. 

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin